Ngày đăng tin : 30/12/2021
Chia sẻ thông tin hữu ích
Sinh con thứ 3 luôn là vấn đề được nhiều người quan tâm, đặc biệt là cán bộ, công chức, viên chức. Vậy theo quy định mới nhất hiện nay, viên chức sinh con thứ 3 bị xử lý thế nào?
Viên chức có bị cấm sinh con thứ 3 không?
Trước đây, khoản 2 Điều 2 Nghị định 114/2006/NĐ-CP quy định về việc sinh con thứ ba của Đảng viên, cán bộ, công chức, viên chức như sau:
Đảng viên sinh con thứ ba trở lên thì bị xử lý kỷ luật theo quy định của Đảng. Cán bộ, công chức, viên chức nhà nước sinh con thứ ba trở lên thì bị xử lý kỷ luật theo quy định của Chính phủ. Thành viên của các đoàn thể nhân dân, tổ chức xã hội sinh con thứ ba trở lên thì bị xử lý theo quy định của quy chế, quy định của đoàn thể, tổ chức. Người dân sinh con thứ ba trở lên thì bị xử lý theo quy định của hương ước, quy ước của làng, bản, thôn, xóm, cụm dân cư nơi cư trú.
Theo đó, khi sinh con thứ ba, cả Đảng viên, viên chức đều bị kỷ luật theo quy định của Chính phủ. Tuy nhiên, tại thời điểm hiện nay, Nghị định 114 nêu trên đã hết hiệu lực và được thay thế bằng Nghị định số 117/2020/NĐ-CP không còn quy định nào đề cập đến việc kỷ luật viên chức sinh con thứ ba.
Bên cạnh đó, khoản 9 Điều 16 Nghị định 112/2020/NĐ-CP về xử lý kỷ luật viên chức chỉ nêu:
Vi phạm quy định của pháp luật về phòng, chống bạo lực gia đình; dân số, hôn nhân và gia đình; bình đẳng giới; an sinh xã hội; quy định khác của pháp luật liên quan đến viên chức.
Trong đó, các hành vi bị cấm theo Điều 7 Pháp luật về dân số năm 2003 gồm:
- Cản trở, cưỡng bức thực hiện kế hoạch hóa gia đình.
- Lựa chọn giới tính thai nhi dưới mọi hình thức.
- Sản xuất, kinh doanh nhập, cung cấp phương tiện trách thai giả, không đạt chuẩn, quá hạn, chưa được lưu hành.
- Nhân bản vô tính người…
Đồng thời, quyền và nghĩa vụ của mỗi cặp vợ chồng được nêu tại Điều 1 Pháp lệnh về dân số sửa đổi năm 2008 như sau:
1. Quyết định thời gian và khoảng cách sinh con;
2. Sinh một hoặc hai con, trừ trường hợp đặc biệt do Chính phủ quy định
Trong đó, việc sinh con thứ ba không bị coi là vi phạm về dân số nêu tại Điều 2 Nghị định 20/2010/NĐ-CP gồm:
- Hai vợ, chồng hoặc một trong hai thuộc dân tộc cố dân số dưới 10.000 người hoặc thuộc dân tộc có nguy cơ suy giảm số dân.
- Sinh lần đầu là sinh ba.
- Có một con đẻ, lần sinh thứ hai sinh đôi.
- Sinh lần thứ ba mà tại thời điểm sinh chỉ có một con đẻ còn sống, kể cả đã cho làm con nuôi.
- Nếu đã có hai con đẻ nhưng một hoặc cả hai bị dị tật hoặc mắc bệnh hiểm nghèo không mang tính di truyền, đã được cơ quan có thẩm quyền xác nhận.
- Đã có con riêng mà sinh thêm một hoặc hai con; sinh một hoặc sinh đôi trong cùng một lần sinh thì hai người phải đều có con riêng…
Nói tóm lại, pháp luật chỉ bỏ việc xử phạt vi phạm hành chính nếu cặp vợ, chồng sinh con thứ ba. Nhưng nếu là viên chức thì theo Nghị định 112, nếu không thuộc các trường hợp nêu trên, viên chức sinh con thứ ba sẽ bị xử lý kỷ luật.
Viên chức sinh con thứ 3 bị xử lý thế nào?
Như phân tích ở trên, vợ chồng có vợ hoặc chồng hoặc cả hai người là viên chức cũng như các cặp vợ chồng khác sẽ không bị xử phạt vi phạm hành chính khi sinh con thứ ba. Tuy nhiên, với vai trò là viên chức, Đảng viên, viên chức vẫn sẽ bị kỷ luật theo quy định như sau:
Nếu chỉ là viên chức
Căn cứ Nghị định 112/2020/NĐ-CP, Chính phủ quy định cụ thể về hình thức kỷ luật viên chức vi phạm chính sách về dân số (sinh con thứ ba không thuộc trường hợp không vi phạm chính sách dân số theo Điều 2 Nghị định số 20/2010/NĐ-CP như sau:
Nếu viên chức là Đảng viên thì ngoài bị kỷ luật về mặt chính quyền thì người này còn bị kỷ luật Đảng. Cụ thể, căn cứ Quy định 102 năm 2017:Nếu viên chức là Đảng viên
- Khiển trách: Sinh con thứ ba trừ trường hợp pháp luật cho phép.
- Cảnh cáo hoặc cách chức (nếu có chức vụ): Tái phạm hoặc gây hậu quả nghiêm trọng.
- Khai trừ: Gây hậu quả rất nghiêm trọng hoặc gian dối trong việc cho con đẻ hoặc nhận nuôi con nuôi mà thực chất là con đẻ nhằm cố tình sinh thêm con ngoài quy định.
Podcast tình huống kế toán mới nhất
Nội dung này quy định tại Nghị định 232/2025/NĐ-CP sửa đổi Nghị định 24/2012/NĐ-CP về quản lý hoạt động kinh doanh vàng. Khoản 7 Điều 1 Nghị định 232/2025/NĐ-CP đã bổ sung Điều 11a sau Điều 11 Nghị định 24/2012/NĐ-CP về điều kiện cấp Giấy phép sản xuất vàng miếng Theo đó, doanh nghiệp được Ngân hàng Nhà nước xem xét cấp Giấy phép sản xuất vàng miếng khi đáp ứng đủ 04 điều kiện sau: (1) Có Giấy phép kinh doanh mua, bán vàng miếng;
Nghị định 232/2025/NĐ-CP sửa đổi Nghị định 24/2012/NĐ-CP về quản lý hoạt động kinh doanh vàng được ban hành ngày 26/8/2025. Theo đó, Nghị định số 232/2025/NĐ-CP (hiệu lực từ ngày 10/10/2025) sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 24/2012/NĐ-CP về quản lý hoạt động kinh doanh vàng. Cụ thể: - Sửa đổi, bổ sung khoản 1 Điều 1 Nghị định 24/2012/NĐ-CP về phạm vi điều chỉnh như sau:
Theo khoản 1 Điều 30 Luật Bảo vệ dữ liệu cá nhân 2025, số 91/2025/QH15: “Dữ liệu cá nhân trong môi trường dữ liệu lớn, trí tuệ nhân tạo, chuỗi khối, vũ trụ ảo và điện toán đám mây phải được xử lý đúng mục đích và giới hạn trong phạm vi cần thiết, bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của chủ thể dữ liệu cá nhân.” Bên cạnh đó, doanh nghiệp không được thu thập hoặc xử lý vượt quá mục đích đã công bố hoặc thỏa thuận với người dùng.
Bảo hiểm y tế trái tuyến là gì? Theo quy định của pháp luật, cụ thể là Luật bảo hiểm y tế 2008 được sửa đổi, bổ sung bởi Luật sửa đổi, bổ sung Luật Bảo hiểm y tế 2024 có hiệu lực ngày 01/7/2025 và các quy định khác có liên quan thì hiện nay chưa có quy định thế nào là BHYT trái tuyến hay khám BHYT trái tuyến. Tuy nhiên, Điều 26 Luật Bảo hiểm y tế 2008 sửa đổi bổ sung 2024 lại quy định người tham gia BHYT bắt buộc hoặc mua BHYT tự nguyện đều phải đăng ký khám bệnh, chữa bệnh BHYT ban đầu tại cơ sở khám bệnh, chữa bệnh cấp ban đầu hoặc cấp cơ bản.
Để tuyển dụng hoặc tìm việc hiệu quả . Vui lòng ĐĂNG KÝ TÀI KHOẢN hoặc ĐĂNG KÝ TƯ VẤN để được hỗ trợ ngay !