Ngày đăng tin : 24/11/2021
Chia sẻ thông tin hữu ích
Do cần điều dưỡng sức khỏe trước sinh hoặc vì nhiều nguyên nhân khác mà lao động nữ khi mang thai sẽ có nhu cầu nghỉ trước sinh một thời gian. Vậy lao động nữ được nghỉ thai sản trước sinh mấy tháng?
Được nghỉ hưởng thai sản trước sinh là bao lâu?
Liên quan đến giải quyết chế độ cho lao động nữ mang thai và sinh con, khoản 1 Điều 34 Luật Bảo hiểm xã hội (BHXH) năm 2014 quy định:
1. Lao động nữ sinh con được nghỉ việc hưởng chế độ thai sản trước và sau khi sinh con là 06 tháng. Trường hợp lao động nữ sinh đôi trở lên thì tính từ con thứ hai trở đi, cứ mỗi con, người mẹ được nghỉ thêm 01 tháng.
Thời gian nghỉ hưởng chế độ thai sản trước khi sinh tối đa không quá 02 tháng.
Theo đó, lao động nữ mang thai sẽ được nghỉ hưởng chế độ thai sản trước sinh tối đa là 02 tháng. Tuy nhiên, cùng với việc nghỉ thai sản trước sinh thì thời gian hưởng thai sản sau sinh sẽ bị rút ngắn, bởi tổng thời gian nghỉ hưởng chế độ thai sản trước và sau sinh chỉ là 06 tháng.
Vì vậy, nếu người lao động nghỉ trước sinh 02 tháng thì chỉ được hưởng chế độ này đến khi con được sinh ra đủ 04 tháng. Trong trường hợp nghỉ thai sản trước sinh, lao động nữ vẫn được nhận đủ các khoản tiền sau:
- Trợ cấp một lần khi sinh con:
Căn cứ Điều 38 Luật BHXH năm 2014, lao động nữ sinh con thì được trợ cấp một lần cho mỗi con bằng 02 lần mức lương cơ sở tại tháng người đó sinh con.
Hiện nay mức lương cơ sở đang áp dụng cho năm 2021 là 1,49 triệu đồng/tháng. Do đó, lao động nữ được hưởng 2,98 triệu đồng/con.
- Tiền chế độ thai sản:
Căn cứ Điều 39 Luật BHXH năm 2019, lao động nữ được hưởng:
| Mức hưởng hàng tháng | = | 100% | x | Mức bình quân tiền lương tháng đóng BHXH 06 tháng trước khi nghỉ việc |
Ví dụ: Mức lương đóng BHXH của chị A trong 06 tháng trước khi nghỉ chờ sinh là 06 triệu đồng/tháng thì khi nghỉ hưởng thai sản chị A được nhận:
Tiền trợ cấp 01 lần khi sinh = 01 con x 2 x 1,49 triệu đồng = 2,98 triệu đồng
Tiền chế độ thai sản = 100% x 06 triệu đồng/tháng x 06 tháng = 36 triệu đồng
Tổng số tiền chị A được nhận = 38,98 triệu đồng.
Lao động nữ nghỉ trước sinh trên 2 tháng, có sao không?
Như đã đề cập ở phần trên, lao động nữ chỉ được nghỉ hưởng chế độ thai sản trước sinh tối đa 02 tháng. Tuy nhiên, vì nhiều lý do mà người lao muốn nghỉ trước sinh trong thời gian dài hơn 02 tháng thì liệu có được ảnh hưởng gì đến việc hưởng chế độ thai sản?
Việc giải quyết chế độ thai sản được căn cứ vào thời gian đóng BHXH của người lao động. Cụ thể, theo Điều 31 Luật BHXH năm 2014, lao động nữ khi sinh con được hưởng chế độ thai sản khi có thời gian đóng BHXH như sau:
- Thai bình thường: Phải đóng BHXH từ đủ 06 tháng trở lên trong thời gian 12 tháng trước khi sinh con.
- Thai yếu có chỉ định nghỉ dưỡng thai theo chỉ định của cơ sở khám bệnh, chữa bệnh có thẩm quyền: Thỏa mãn đồng thời:
+ Đã đóng BHXH từ đủ 12 tháng trở lên;
+ Đóng BHXH từ đủ 03 tháng trở lên trong thời gian 12 tháng trước khi sinh con.
Trong khi đó, nếu nghỉ việc từ 14 ngày làm việc trở lên trong tháng thì người lao động sẽ không đóng được đóng BHXH tháng đó (khoản 4 Điều 42 Quyết định 595/QĐ-BHXH).
Vì vậy, khi nghỉ trước sinh nhiều tháng, người lao động cần cân nhắc kỹ về thời gian đóng BHXH trước khi sinh của mình. Nếu nghỉ trước sinh quá nhiều mà làm thời gian đóng BHXH không đủ, lao động nữ sẽ không được giải quyết chế độ thai sản.
Cùng với đó, dù đủ điều kiện hưởng chế độ thai sản khi nghỉ trước sinh nhiều hơn 02 tháng nhưng cơ quan BHXH sẽ chỉ giải quyết chế độ đối với thời gian nghỉ trước sinh 02 tháng. Thời gian nghỉ vượt quá sẽ không được tính hưởng chế độ.
Tuy nhiên để có thêm quyền lợi trong thời gian nghỉ vượt quá này, người lao động có thể thỏa thuận với người sử dụng lao động về việc trừ phép năm trong khoảng thời gian này. Khi đó, dù nghỉ làm nhưng lao động nữ vẫn được nhận đủ lương theo hợp đồng lao động.
Dù vậy, theo Điều 113 Bộ luật Lao động năm 2019, tổng số ngày nghỉ hằng năm tương đối ít, từ 12 - 16 ngày tùy từng công việc. Với thời gian nghỉ còn lại, người lao động có thể thỏa thuận về việc nghỉ không hưởng lương với doanh nghiệp.
Podcast tình huống kế toán mới nhất
Nội dung này quy định tại Nghị định 232/2025/NĐ-CP sửa đổi Nghị định 24/2012/NĐ-CP về quản lý hoạt động kinh doanh vàng. Khoản 7 Điều 1 Nghị định 232/2025/NĐ-CP đã bổ sung Điều 11a sau Điều 11 Nghị định 24/2012/NĐ-CP về điều kiện cấp Giấy phép sản xuất vàng miếng Theo đó, doanh nghiệp được Ngân hàng Nhà nước xem xét cấp Giấy phép sản xuất vàng miếng khi đáp ứng đủ 04 điều kiện sau: (1) Có Giấy phép kinh doanh mua, bán vàng miếng;
Nghị định 232/2025/NĐ-CP sửa đổi Nghị định 24/2012/NĐ-CP về quản lý hoạt động kinh doanh vàng được ban hành ngày 26/8/2025. Theo đó, Nghị định số 232/2025/NĐ-CP (hiệu lực từ ngày 10/10/2025) sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 24/2012/NĐ-CP về quản lý hoạt động kinh doanh vàng. Cụ thể: - Sửa đổi, bổ sung khoản 1 Điều 1 Nghị định 24/2012/NĐ-CP về phạm vi điều chỉnh như sau:
Theo khoản 1 Điều 30 Luật Bảo vệ dữ liệu cá nhân 2025, số 91/2025/QH15: “Dữ liệu cá nhân trong môi trường dữ liệu lớn, trí tuệ nhân tạo, chuỗi khối, vũ trụ ảo và điện toán đám mây phải được xử lý đúng mục đích và giới hạn trong phạm vi cần thiết, bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của chủ thể dữ liệu cá nhân.” Bên cạnh đó, doanh nghiệp không được thu thập hoặc xử lý vượt quá mục đích đã công bố hoặc thỏa thuận với người dùng.
Bảo hiểm y tế trái tuyến là gì? Theo quy định của pháp luật, cụ thể là Luật bảo hiểm y tế 2008 được sửa đổi, bổ sung bởi Luật sửa đổi, bổ sung Luật Bảo hiểm y tế 2024 có hiệu lực ngày 01/7/2025 và các quy định khác có liên quan thì hiện nay chưa có quy định thế nào là BHYT trái tuyến hay khám BHYT trái tuyến. Tuy nhiên, Điều 26 Luật Bảo hiểm y tế 2008 sửa đổi bổ sung 2024 lại quy định người tham gia BHYT bắt buộc hoặc mua BHYT tự nguyện đều phải đăng ký khám bệnh, chữa bệnh BHYT ban đầu tại cơ sở khám bệnh, chữa bệnh cấp ban đầu hoặc cấp cơ bản.
Để tuyển dụng hoặc tìm việc hiệu quả . Vui lòng ĐĂNG KÝ TÀI KHOẢN hoặc ĐĂNG KÝ TƯ VẤN để được hỗ trợ ngay !