Ngày đăng tin : 08/01/2024
Chia sẻ thông tin hữu ích
1. Tăng mức doanh thu không chịu thuế GTGT của hộ, cá nhân kinh doanh lên 150 triệu đồng
Hiện nay, theo khoản 25 Điều 5 Luật Thuế GTGT năm 2008 sửa đổi, bổ sung năm 2013, hàng hóa, dịch vụ của hộ, cá nhân kinh doanh có mức doanh thu hàng năm từ 100 triệu đồng trở xuống thuộc đối tượng không chịu thuế GTGT.
Tại khoản 25 Điều 5 dự thảo Luật Thuế GTGT, Bộ Tài chính đề xuất nâng mức doanh thu hàng hóa, dịch vụ không chịu thuế GTGT của hộ, cá nhân kinh doanh lên 150 triệu đồng thay vì 100 triệu đồng như hiện nay.
2. Thay đổi thuế suất của một số loại hàng hóa, dịch vụ
2.1. Từ không chịu thuế sang chịu thuế 5%
Dự thảo mới dự kiến chuyển các hàng hóa không chịu thuế GTGT sau sang chịu thuế suất thuế GTGT 5%:
Đồng thời, bỏ các hàng hóa, dịch vụ thuộc đối tượng không chịu thuế GTGT sau:
- Lưu ký chứng khoán;
- Dịch vụ tổ chức thị trường của sở giao dịch chứng khoán hoặc trung tâm giao dịch chứng khoán;
- Dịch vụ bưu chính, viễn thông công ích và In-ter-net phổ cập theo chương trình của Chính phủ;
- Dịch vụ duy trì vườn thú, vườn hoa, công viên, cây xanh đường phố, chiếu sáng công cộng.
2.2. Từ chịu thuế 5% sang 10%
Theo Điều 9 dự thảo Luật Thuế GTGT, các mặt hàng sau sẽ chuyển sang áp dụng thuế suất 10% thay vì áp dụng mức thuế suất 5% như quy định hiện hành:
- Lâm sản chưa qua chế biến;
- Đường; phụ phẩm trong sản xuất đường, bao gồm gỉ đường, bã mía, bã bùn;
- Các loại thiết bị, dụng cụ chuyên dùng cho giảng dạy, nghiên cứu, thí nghiệm khoa học
- Hoạt động văn hóa, triển lãm, thể dục, thể thao; biểu diễn nghệ thuật; sản xuất phim; nhập khẩu, phát hành và chiếu phim.
Bên cạnh đó, Bộ Tài chính đề xuất đưa thực phẩm tươi sống về đối tượng không chịu thuế GTGT đối với sản phẩm chăn nuôi, thủy sản chưa chế biến thành các sản phẩm khác, chỉ qua sơ chế thông thường thay vì phải chịu thuế 5% như quy định hiện hành.
3. Hóa đơn trên 5 triệu phải có chứng từ thanh toán không dùng tiền mặt
Điểm b khoản 2 Điều 12 Luật Thuế GTGT hiện hành quy định để được khấu trừ thuế GTGT cần đáp ứng điều kiện sau:
- Có hoá đơn GTGT mua hàng hoá, dịch vụ/chứng từ nộp thuế GTGT ở khâu nhập khẩu;
- Có chứng từ thanh toán không dùng tiền mặt đối với hàng hóa, dịch vụ mua vào, trừ hàng hoá, dịch vụ mua từng lần có giá trị dưới 20 triệu đồng;
- Đối với hàng hoá, dịch vụ xuất khẩu, ngoài các điều kiện quy định tại điểm a và điểm b khoản này còn phải có:
Hợp đồng ký kết với bên nước ngoài về việc bán, gia công hàng hoá, cung ứng dịch vụ;
Hoá đơn bán hàng hoá, dịch vụ;
Chứng từ thanh toán không dùng tiền mặt;
Tờ khai hải quan đối với hàng hoá xuất khẩu.
Theo đó, dự thảo Luật Thuế GTGT yêu cầu hàng hóa, dịch vụ mua từng lần có giá trị từ 05 triệu đồng trở lên (thay vì trên 20 triệu đồng như hiện nay) phải có chứng từ thanh toán không dùng tiền mặt.
Bên cạnh đó, dự thảo cũng bổ sung một số chứng từ: Phiếu đóng gói, vận đơn, chứng từ bảo hiểm hàng hóa vào điều kiện khấu trừ GTGT đầu vào đối với hàng hóa, dịch vụ xuất khẩu để tránh gian lận trong khấu trừ, hoàn thuế.
Đồng thời, bổ sung điều kiện khấu trừ thuế GTGT đầu vào đối với chứng từ nộp thuế GTGT thay cho phía nước ngoài.
4. Bổ sung nhiều quy định mới về hoàn thuế GTGT
Dự thảo Luật thuế GTGT đã bổ sung quy định:
Cơ sở kinh doanh sản xuất hàng hóa, cung ứng dịch vụ chịu thuế suất thuế GTGT 5% nếu có số thuế GTGT đầu vào chưa được khấu trừ hết từ ba trăm triệu đồng trở lên sau 12 tháng hoặc 04 quý được hoàn thuế GTGT.
Bên cạnh đó, quy định rõ không hoàn thuế GTGT đối với dự án đầu tư của cơ sở kinh doanh ngành, nghề đầu tư kinh doanh có điều kiện khi chưa đủ các điều kiện kinh doanh để tránh vướng mắc trong thực hiện.
Ngoài ra, dự thảo dự kiến bỏ quy định không hoàn thuế GTGT đối với:
- Dự án đầu tư của cơ sở kinh doanh không góp đủ số vốn điều lệ như đã đăng ký;
- Hàng hóa nhập khẩu để xuất khẩu;
- Hoàn thuế trước, kiểm tra sau đối với một số trường hợp hàng hóa xuất khẩu.
Đồng thời bãi bỏ quy định về hoàn thuế GTGT đối với trường hợp doanh nghiệp chuyển đổi sở hữu, chuyển đổi doanh nghiệp, sáp nhập, hợp nhất, chia, tách, chấm dứt hoạt động.
Nguồn: Sưu tầm Internet
Podcast tình huống kế toán mới nhất
Nội dung này quy định tại Nghị định 232/2025/NĐ-CP sửa đổi Nghị định 24/2012/NĐ-CP về quản lý hoạt động kinh doanh vàng. Khoản 7 Điều 1 Nghị định 232/2025/NĐ-CP đã bổ sung Điều 11a sau Điều 11 Nghị định 24/2012/NĐ-CP về điều kiện cấp Giấy phép sản xuất vàng miếng Theo đó, doanh nghiệp được Ngân hàng Nhà nước xem xét cấp Giấy phép sản xuất vàng miếng khi đáp ứng đủ 04 điều kiện sau: (1) Có Giấy phép kinh doanh mua, bán vàng miếng;
Nghị định 232/2025/NĐ-CP sửa đổi Nghị định 24/2012/NĐ-CP về quản lý hoạt động kinh doanh vàng được ban hành ngày 26/8/2025. Theo đó, Nghị định số 232/2025/NĐ-CP (hiệu lực từ ngày 10/10/2025) sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 24/2012/NĐ-CP về quản lý hoạt động kinh doanh vàng. Cụ thể: - Sửa đổi, bổ sung khoản 1 Điều 1 Nghị định 24/2012/NĐ-CP về phạm vi điều chỉnh như sau:
Theo khoản 1 Điều 30 Luật Bảo vệ dữ liệu cá nhân 2025, số 91/2025/QH15: “Dữ liệu cá nhân trong môi trường dữ liệu lớn, trí tuệ nhân tạo, chuỗi khối, vũ trụ ảo và điện toán đám mây phải được xử lý đúng mục đích và giới hạn trong phạm vi cần thiết, bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của chủ thể dữ liệu cá nhân.” Bên cạnh đó, doanh nghiệp không được thu thập hoặc xử lý vượt quá mục đích đã công bố hoặc thỏa thuận với người dùng.
Bảo hiểm y tế trái tuyến là gì? Theo quy định của pháp luật, cụ thể là Luật bảo hiểm y tế 2008 được sửa đổi, bổ sung bởi Luật sửa đổi, bổ sung Luật Bảo hiểm y tế 2024 có hiệu lực ngày 01/7/2025 và các quy định khác có liên quan thì hiện nay chưa có quy định thế nào là BHYT trái tuyến hay khám BHYT trái tuyến. Tuy nhiên, Điều 26 Luật Bảo hiểm y tế 2008 sửa đổi bổ sung 2024 lại quy định người tham gia BHYT bắt buộc hoặc mua BHYT tự nguyện đều phải đăng ký khám bệnh, chữa bệnh BHYT ban đầu tại cơ sở khám bệnh, chữa bệnh cấp ban đầu hoặc cấp cơ bản.
Để tuyển dụng hoặc tìm việc hiệu quả . Vui lòng ĐĂNG KÝ TÀI KHOẢN hoặc ĐĂNG KÝ TƯ VẤN để được hỗ trợ ngay !