Ngày đăng tin : 16/12/2022
Chia sẻ thông tin hữu ích
1. Không được chấm dứt hợp đồng khi hết hạn nếu NLĐ đang trong nhiệm kì
Theo khoản 1 Điều 34 Bộ luật Lao động năm 2019, hợp đồng lao động sẽ chấm dứt hiệu lực khi hết thời hạn. Tuy nhiên quy định này lại loại trừ trường hợp người lao động là lao động là thành viên ban lãnh đạo của tổ chức đại diện người lao động tại cơ sở đang trong nhiệm kỳ mà hết hạn hợp đồng lao động.
Trong đó, khoản 3 Điều 3 Bộ luật này cũng giải thích về tổ đại diện người lao động tại cơ sở như sau:
3. Tổ chức đại diện người lao động tại cơ sở là tổ chức được thành lập trên cơ sở tự nguyện của người lao động tại một đơn vị sử dụng lao động nhằm mục đích bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của người lao động trong quan hệ lao động thông qua thương lượng tập thể hoặc các hình thức khác theo quy định của pháp luật về lao động. Tổ chức đại diện người lao động tại cơ sở bao gồm công đoàn cơ sở và tổ chức của người lao động tại doanh nghiệp.
Như vậy, công đoàn tại doanh nghiệp cũng là một tổ chức đại điện người lao động tại cơ sở. Do đó, người lao động là cán bộ công đoàn tại doanh nghiệp đang trong nhiệm kỳ mà hết hạn hợp đồng lao động thì sẽ không bị chấm dứt hợp đồng lao động.
Lúc này, theo quy định tại khoản 4 Điều 177 Bộ luật Lao động năm 2019, người sử dụng lao động buộc phải gia hạn hợp đồng lao động đã ký cho đến hết nhiệm kỳ làm cán bộ công đoàn của người lao động.
Và để gia hạn hợp đồng, doanh nghiệp và người lao động phải tiến hành ký hợp đồng lao động mới chứ không được sửa đổi thời hạn của hợp đồng lao động bằng phụ lục (theo khoản 2 Điều 22 Bộ luật Lao động năm 2019).
Hợp đồng mới được ký phải có thời hạn tối thiểu đến khi người lao động hết nhiệm kỳ làm cán bộ công đoàn tại doanh nghiệp.
Trường hợp không gia hạn hợp đồng lao động với cán bộ công đoàn đang trong nhiệm kì mà hết hạn hợp đồng, người sử dụng lao động sẽ bị xử phạt vi phạm hành chính từ 10 - 20 triệu đồng theo quy định tại điểm c khoản 2 Điều 35 Nghị định 12/2022/NĐ-CP.
2. Thủ tục đơn phương chấm dứt hợp đồng, sa thải phức tạp hơn
Để đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động hay sa thải người lao động một cách hợp pháp thì người sử dụng lao động đều phải có lý do và đảm bảo thực hiện đúng thủ tục theo quy định của pháp luật.
Tuy nhiên, với đối tượng lao động là cán bộ công đoàn thì việc đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động hoặc sa thải họ sẽ phức tạp hơn so với người lao động thông thường.
Ngoài việc phải có lý do chính đáng được pháp luật quy định và phải thực hiện thủ tục báo trước (trường hợp đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động) hoặc tiến hành họp xử lý kỷ luật lao động (trường hợp sa thải người lao động), theo khoản 3 Điều 177 Bộ luật Lao động năm 2019, doanh nghiệp còn phải lập văn bản thỏa thuận với ban lãnh đạo của công đoàn doanh nghiệp.
Trường hợp các bên không thỏa thuận được thì phải báo cáo với Sở Lao động - Thương binh và Xã hội và phải chờ 30 ngày sau, phía doanh nghiệp mới được quyền ra quyết định đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động hoặc xử lý kỷ luật sa thải đối với người lao động.
Tuy nhiên, nếu không tiến hành thỏa thuận hoặc báo cáo Sở Lao động - Thương binh và Xã hội khi không thỏa thuận được với ban lãnh đạo công đoàn tại doanh nghiệp mà vẫn tiến hành đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động hoặc sa thải người lao động là cán bộ công đoàn thì doanh nghiệp sẽ bị coi là đơn phương chấm dứt hợp đồng trái pháp luật.
Kéo theo đó, doanh nghiệp không chỉ phải nhận lại người lao động trở lại làm việc, bồi thường cho người đó mà còn bị xử phạt vi phạm hành chính từ 10 - 20 triệu đồng về một trong các hành vi sau đây:
- Không thỏa thuận bằng văn bản với ban lãnh đạo của tổ chức đại diện người lao động tại cơ sở khi đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động hoặc kỷ luật sa thải đối với người lao động là thành viên ban lãnh đạo của công đoàn cơ sở nhưng chưa đến mức truy cứu trách nhiệm hình sự, trừ trường hợp không thỏa thuận được (điểm a khoản 2 Điều 35 Nghị định 12/2022/NĐ-CP).
- Quyết định đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động hoặc kỷ luật sa thải đối với người lao động là thành viên ban lãnh đạo công đoàn cơ sở mà vi phạm thời gian báo trước cho Sở Lao động - Thương binh và Xã hội biết trong trường hợp không thỏa thuận được với ban lãnh đạo của công đoàn cơ sở (điểm b khoản 2 Điều 35 Nghị định 12/2022/NĐ-CP).
Nguồn: Sưu tầm Internet
Podcast tình huống kế toán mới nhất
Làn sóng hộ kinh doanh từ chối nhận chuyển khoản lan rộng, chuyện gì đang xảy ra? Trong vài năm gần đây, người tiêu dùng ở các thành phố lớn và đặc biệt là người trẻ đã quen với việc thanh toán bằng hình thức chuyển khoản khi đi ăn uống, mua sắm. Tuy nhiên vài ngày qua, không ít các cửa hàng ăn uống, tạp hóa, sạp hàng thực phẩm lại đồng loạt treo bảng “không nhận chuyển khoản”, các mã QR cũng đã biến mất. Đối với hoạt động kinh doanh online, nhiều người cũng nhiều thay đổi cách nhận tiền như thay đổi tài khoản, không nhận đơn COD… Một số đơn vị kinh doanh chấp nhận chuyển khoản nhưng thông báo cộng thêm phí thuế, hoặc giữ nguyên giá nếu khách trả tiền mặt.
Mức phạt hành chính Điều 46 Nghị định 98/2020/NĐ-CP quy định phạt tiền từ 10 - 20 triệu đồng đối với các hành vi vi phạm về bảo vệ thông tin của người tiêu dùng, làm lộ thông tin khách hàng, bao gồm: Không thông báo rõ ràng, công khai với người tiêu dùng về mục đích trước khi thực hiện hoạt động thu thập, sử dụng thông tin của người tiêu dùng theo quy định; Sử dụng thông tin của người tiêu dùng không phù hợp với mục đích đã thông báo với người tiêu dùng mà không được người tiêu dùng đồng ý theo quy định; Không bảo đảm an toàn, chính xác, đầy đủ đối với thông tin của người tiêu dùng khi thu thập, sử dụng, chuyển giao theo quy định; Không tự điều chỉnh hoặc không có biện pháp để người tiêu dùng cập nhật, điều chỉnh thông tin khi phát hiện thấy thông tin không chính xác theo quy định;
1. Điều kiện giải quyết tranh chấp bằng trọng tài Căn cứ vào Điều 5 Luật Trọng tài thương mại năm 2010, điều kiện để tranh chấp có thể được giải quyết bằng phương thức Trọng tài bao gồm: Các bên có thỏa thuận Trọng tài. Thỏa thuận có thể được lập trước hoặc sau khi xảy ra tranh chấp (Ví dụ: (1) Trước khi hợp tác hoặc giao dịch, các bên có thể lập thỏa thuận trọng tài quy định phạm vi áp dụng đối với mọi tranh chấp có thể phát sinh liên quan đến quan hệ hợp tác/giao dịch đó; hoặc (2) Sau khi phát sinh tranh chấp và trải qua nhiều lần đàm phán, thương lượng nhưng không thành công, các bên có thể đồng ý ký thỏa thuận trọng tài quy định rõ ràng tranh chấp này sẽ được giải quyết bằng phương thức trọng tài thương mại)
Từ ngày 01/6/2025 có bắt buộc phải xuất hóa đơn điện tử trực tiếp từ máy tính tiền không? Đối với trường hợp thuộc diện sử dụng hóa đơn điện tử khởi tạo từ máy tính tiền, khoản 5 Điều 12 Thông tư 32/2025/TT-BTC hướng dẫn: Trường hợp doanh nghiệp có hoạt động bán hàng hóa, cung cấp dịch vụ trực tiếp đến người tiêu dùng đã đăng ký sử dụng hóa đơn điện tử có mã, hóa đơn điện tử không có mã của cơ quan thuế phục vụ hoạt động bán hàng hóa, cung cấp dịch vụ trực tiếp đến người tiêu dùng nêu trên trước ngày 01/6/2025 thì được lựa chọn: Hoặc chuyển đổi áp dụng hóa đơn điện tử khởi tạo từ máy tính tiền theo quy định tại Nghị định số 70/2025/NĐ-CP
Để tuyển dụng hoặc tìm việc hiệu quả . Vui lòng ĐĂNG KÝ TÀI KHOẢN hoặc ĐĂNG KÝ TƯ VẤN để được hỗ trợ ngay !